Thuốc dùng trong các bệnh viêm khớp, chủ yếu là viêm khớp dạng thấp (Rheumatoid Arthritis) và viêm khớp thoái hóa (Osteoarthritis) đều có tác dụng điều trị, nhưng bên cạnh đó cũng có thể gây những ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.
Ðể
tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra, các bệnh nhân viêm khớp
cần có sự hiểu biết nhất định về một số loại thuốc thường dùng, đồng
thời hợp tác chặt chẽ với bác sĩ để kịp thời tư vấn khi cần thiết.
Hình minh họa. internet |
Ðề phòng phản ứng phụ của thuốc
Tác dụng phụ là các phản ứng có hại cho người bệnh khi dùng thuốc đúng liều lượng. Trước khi đưa vào sử dụng, tất cả các loại thuốc đều được thử nghiệm trên người khỏe mạnh và bệnh nhân. Tác dụng chữa bệnh sẽ được so sánh với những tác dụng có hại để có sự chỉ định hợp lý cho việc dùng thuốc. Mặc dù vậy, có những phản ứng phụ không phổ biến, chỉ xảy ra ở 1-2 trên tổng số 1.000 người dùng thuốc cũng như các triệu chứng xuất hiện sau một thời gian dùng thuốc kéo dài đã không được nhắc đến trong đơn thuốc. Mặt khác, các tác dụng chữa bệnh của mỗi loại thuốc cũng thường giảm đi cùng với thời gian.
Một số phản ứng có hại của thuốc rất dễ được phát hiện như: dị ứng thuốc (tăng nhiệt độ, mẩn ngứa, nổi mề đay, nhức đầu, nôn mửa) hoặc shock phản vệ (ngứa toàn bộ cơ thể: nhất là ở bàn tay và bàn chân, phù ở mắt như bị bỏng nặng, phù cuống họng, khó thở, chóng mặt, tụt huyết áp và có thể ngất xỉu). Hiện tượng không dung nạp thuốc có thể xảy ra ở khoảng 25% bệnh nhân. Hệ miễn dịch không có vai trò trong loại phản ứng này. Ðau bụng, nôn mửa, đau gân, chóng mặt, buồn ngủ, tiêu chảy có thể là biểu hiện của tình trạng không dung nạp thuốc. Giảm liều thuốc hoặc dùng thuốc sau bữa ăn đôi khi làm thuốc dễ dung nạp hơn.
Một số hội chứng do thuốc điều trị bệnh viêm khớp gây ra
Ngộ độc thuốc khi điều trị các bệnh khớp có thể từ nhẹ đến nặng, phục hồi hoặc không phục hồi được. Thường những xét nghiệm lâm sàng và cận lâm sàng sẽ giúp chúng ta phát hiện sớm các biểu hiện nhiễm độc như: cao huyết áp, loét và chảy máu đường tiêu hóa, hạ đường huyết, tổn thương hoàng điểm, tổn thương gan, thận, rối loạn về chuyển hóa và nội tiết, suy tủy dẫn đến giảm các tế bào máu... Bệnh nhân phải dùng thuốc ngay lập tức khi có các biểu hiện ngộ độc trên.
Ngoài các biến chứng thông thường vừa kể, một số hội chứng không điển hình dưới đây cũng cần được chú ý khi điều trị viêm khớp:
1. Các biểu hiện viêm khớp gia tăng:
Bệnh
nhân cảm thấy đau hơn, sưng hơn cùng với cứng khớp. Cần biết rằng ban
đầu có thể xuất hiện các phản ứng theo xu hướng xấu do thuốc bắt đầu tác
dụng. Nếu sau một ngày, các biểu hiện này không được cải thiện và tiếp
tục phát triển thì rất có thể thuốc đã không có tác dụng, cần phải thay
thế thuốc hoặc điều chỉnh lại liều dùng.
2. Tăng nhiệt độ:
2. Tăng nhiệt độ:
Nếu
nhiệt độ tăng không đáng kể (dưới 380C), đó có thể là biểu hiện bình
thường của phản ứng viêm khớp, nhưng nếu nhiệt độ tăng hơn nhiều (trên
380C), phải nghĩ đến khả năng về một bệnh nhiễm trùng. Nhiều thuốc trị
viêm khớp đã làm suy giảm hệ miễn dịch cũng như giảm thiểu tuần hoàn và
làm tăng một cách đáng kể nguy cơ bị các bệnh do vi trùng và siêu vi
trùng. Các thuốc chính gây suy giảm hệ miễn dịch là: Methotrexate,
Immuran, Remicade, Infliximab, Enbrel, Cyclosporine, Cytoxan. Phát hiện
và điều trị kịp thời các biểu hiện nhiễm trùng sẽ giúp giảm bớt những
biến chứng nặng nề có thể xảy ra.
3. Tê hoặc cảm giác kiến bò:
3. Tê hoặc cảm giác kiến bò:
Các
phản ứng này có thể xảy ra vì sự đè nén do phù và viêm vào các dây thần
kinh. Một nguyên nhân khác là do thoái hóa dây thần kinh, do hiện tượng
viêm và tổn thương mạch máu. Ngoài ra, độc tính của một số thuốc kháng
viêm cũng như thuốc làm suy giảm miễn dịch có thể làm tổn hại hệ thần
kinh ngoại vi và gây ra cảm giác tê hoặc kiến bò. Bệnh nhân cần phải
thông báo ngay với bác sĩ những biểu hiện này để tìm ra nguyên nhân và
điều trị kịp thời.
4. Mẩn đỏ:
4. Mẩn đỏ:
Rất
hiếm khi do các bệnh khớp gây ra, nguyên nhân của triệu chứng này
thường là do các thuốc: Solganal, Myochrysine - các thuốc có gốc vàng;
(Rheumatrex, Trexall) - Methoratrexate; (Arava) - Leflueno-mide và
(Plaquenill) - Hydroxychloro-quine.
5. Ðỏ mắt:
5. Ðỏ mắt:
Có thể do nhiễm trùng mắt. Nếu kèm theo đau nhức nặng cần phải nghĩ đến bệnh viêm các mạch máu.
6. Không phân biệt được màu đỏ và xanh lá cây:
6. Không phân biệt được màu đỏ và xanh lá cây:
Thường do Plaquenil làm tổn hại võng mạc gây ra. Bệnh nhân phải báo với bác sĩ và dùng thuốc ngay.
7. Buồn nôn:
7. Buồn nôn:
Hầu
hết các thuốc trị viêm khớp đều có thể gây nên cảm giác rất khó chịu
này, đặc biệt là: Ibuprofen, Naproxen và một số thuốc kháng viêm giảm
đau khác như: Azathiprine - (Immuran), Prednisolone, Methotrexate.
8. Ho và đau ngực:
8. Ho và đau ngực:
Viêm
các khớp liên sườn có thể gây đau ngực. Tuy nhiên cũng cần được khám để
loại trừ khả năng có bệnh về tim và phổi. Như đã trình bày, khả năng bị
nhiễm trùng đường hô hấp do tác dụng giảm miễn dịch của thuốc điều trị
viêm khớp có thể xảy ra và phải được điều trị bằng kháng sinh kịp thời.
Methotrexate có thể gây viêm phổi do làm tổn thương mô và mạch máu, biểu
hiện đầu tiên là ho kéo dài. Các thuốc kháng viêm cũng thường gây ợ
acid và đau rát ở lồng ngực.
Trên đây là một số dấu hiệu chính nhưng không phải hoàn toàn đầy đủ của các phản ứng do thuốc điều trị các bệnh viêm khớp có thể dẫn đến. Thuốc như con dao hai lưỡi, có thể gây ra bệnh tật, thậm chí tử vong nếu không được dùng đúng và không có bác sĩ theo dõi liên tục. Bệnh nhân cũng như thầy thuốc cần luôn cảnh giác để phát hiện và xử lý kịp thời những biến chứng để ngăn chặn các hậu quả nặng nề cũng như phải dùng thêm thuốc không cần thiết.
Trên đây là một số dấu hiệu chính nhưng không phải hoàn toàn đầy đủ của các phản ứng do thuốc điều trị các bệnh viêm khớp có thể dẫn đến. Thuốc như con dao hai lưỡi, có thể gây ra bệnh tật, thậm chí tử vong nếu không được dùng đúng và không có bác sĩ theo dõi liên tục. Bệnh nhân cũng như thầy thuốc cần luôn cảnh giác để phát hiện và xử lý kịp thời những biến chứng để ngăn chặn các hậu quả nặng nề cũng như phải dùng thêm thuốc không cần thiết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét